Văn hóa Trung Quốc là một trong những nền văn hóa lâu đời và phức tạp nhất trên thế giới. Nền văn hóa này có ảnh hưởng sâu rộng đến khu vực Đông Nam Á và đặc biệt là ở Việt Nam. Vậy những ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đến Việt Nam là như thế nào? tích cực hay tiêu cực? được thể hiện rõ nét ở những mặt nào?
Những ảnh hưởng về tư tưởng tôn giáo.
Trung Quốc có rất nhiều những giáo lý và tư tưởng nổi tiếng. Rất nhiều trong số đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam như Phật giáo (Bắc Tông), các hệ tư tưởng như Nho giáo, Đạo giáo hay các tư tưởng về quản lý,… từ xa xưa. Và cho đến ngày nay những điều này vẫn còn ý nghĩa quan trọng trong các hoạt động học tập, nghiên cứu hay quản lý nhà nước.
Một trong số những ảnh hưởng sâu sắc nhất phải kể đến đầu tiên đó chính là Nho giáo. Nho giáo ra đời ở Trung Hoa, được biết tới là tư tưởng do Khổng Tử sáng lập. Nho giáo du nhập vào Việt Nam kể từ thời Bắc thuộc nhưng chỉ được thừa nhận một cách chính thức từ khi Nhà Lý cho xây dựng công trình Văn Miếu thờ Khổng Tử. Thời Lê là mốc đánh dấu sự ảnh hưởng sâu rộng của Nho giáo khi tư tưởng này phổ biến ở giai cấp thống trị và tầng lớp trí thức trong xã hội bấy giờ.
Y học cổ truyền Việt Nam hay ta vẫn thường gọi với cái tên “Đông y” được coi là một nhánh phát triển của y học Trung Hoa đã có niên đại hình thành hơn 3500 năm.
Tương tự như y học căn bản Trung Quốc, Đông y cũng hội tụ đủ yếu tố, hình thức trong điều trị như: Sự đa dạng của các loại thảo mộc, trị liệu bằng xoa bóp, cạo gió, châm cứu, bấm huyệt, vận khí công, nắn xương hay liệu pháp dinh dưỡng…
Nền y học Đông y phát triển gần như là song song với văn hóa của các nước Đông Á và nó đã được ứng dụng rộng rãi, phổ biến trong đời sống, nhờ đó mà ta thấy đây là một kho tàng phong phú tri thức về y học với lịch sử lâu dài. Đi sâu vào nghiên cứu thì có thể thấy cơ sở lý luận của Đông y được khởi nguồn từ quan niệm vũ trụ được chia làm hai phần, tượng trưng cho hai thái cực âm – dương và thuyết ngũ hành. Trong đó, cuốn “Hoàng đế nội kinh” và “Thương hàn luận” của Trương Trọng Cảnh được xem là “cái nôi” của những học thuyết của y học căn bản trong y học Trung Hoa.
Theo lý luận y học cổ truyền, sức khỏe là kết quả của sự tương tác giao thoa giữa những thực thể (cơ quan trong cơ thể) và các yếu tố bên ngoài cơ thể, kết hợp với sự tác động của những yếu tố gây bệnh tật. Do đó, chẩn đoán bệnh trong Đông y không chỉ là dựa trên những triệu chứng của cơ thể người bệnh thể hiện qua mạch đập, lưỡi, da, mắt… mà còn là xem xét các yếu tố như thói quen ăn uống, ngủ nghỉ và môi trường xung quanh người đó như thế nào.
Vấn đề điều trị trong Đông y không chỉ là uống thuốc gì mà còn là những phương pháp không dùng thuốc như châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt, giác hơi… Trong đó, châm cứu được xem là tinh hoa vật lý trị liệu với niên đại hình thành từ rất lâu đời.
Châm cứu là liệu pháp tác động vào hệ thống kinh mạch vô cùng phức tạp trên cơ thể con người với hàng trăm huyệt vị khác nhau. Đông y cho rằng các huyệt vị và các đường kinh mạch có sự liên hệ, tác động mật thiết đến cơ quan tạng phủ trong cơ thể. Do đó, khi một cơ quan tạng phủ bị rối loạn thì có thể tác động vào các huyệt vị tương ứng trên cơ thể để điều trị.
Có một điều đặc biệt là hệ thống huyệt vị, kinh mạch trong cơ thể chỉ có thể được mô tả chi tiết qua phương pháp châm cứu trong Đông y. Điều này không thể thực hiện lại được trong giải phẫu sinh lý hiện đại hoặc nền tảng của Tây y.
Nhắc đến Đông y không thể không nhắc đến kho tàng thuốc Bắc đồ sộ. Đây là những vị thuốc có trong tự nhiên được khai thác và bào chế theo phương pháp y học Trung Hoa nhưng đã được cải tiến thêm bởi những thầy thuốc người Việt sao cho hợp đặc trưng khí hậu, văn hóa Việt Nam. Thuốc Nam được phân biệt với thuốc Bắc ở chỗ thuốc Nam là vị thuốc được khám phá trên chính lãnh thổ Việt Nam và được các thầy thuốc trong nước tìm tòi, khám phá ra. Tại Việt Nam phải kể đến những vị danh y được xem là tổ nghề như Danh y Tuệ Tĩnh, Thần y Lê Hữu Trác…
Sự ảnh hưởng về mặt giáo dục của văn hóa Trung Hoa có mối liên quan mật thiết với sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và Đạo giáo ở Việt Nam. Điều này được thể hiện rất rõ trong chế độ khoa cử và sự phát triển của tầng lớp nho sĩ trong xã hội.
Theo đó, để xây dựng một thiết chế quân chủ tập quyền theo mô hình Đông Á Trung Hoa, cũng như những nguyên lý cơ bản của phép trị nước thì tầng lớp thống trị đã biến Nho giáo thành một nhu cầu tư tưởng thiết yếu mà giải pháp được xem là chiến lược nhất là đánh vào chế độ khoa cử.
Theo các ghi chép lịch sử, ở thời Trần, chế độ khoa cử được tổi chức một cách rất quy củ với tất cả 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy đỗ 282 người đại khoa, có học vị Thái học sinh. Năm 1374, có tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ. 3 người đỗ đầu được gọi là Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. (Sau đặt thêm một học vị cấp cao nữa là Hoàng giáp).
Từ các cuộc thi và ảnh hưởng của nó mà tầng lớp nho sĩ trong xã hội Việt Nam cũng ngày một phát triển. Nổi bật trong số đó phải kể đến những nhân tài của đất nước như: Lê Văn Hưu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An…
“Thuận theo thời cuộc”, tầm ảnh hưởng của Nho giáo trong đời sống đã kéo theo nhu cầu học “chữ nho” hay ngoại ngữ chính là tiếng Trung Quốc bên cạnh việc học chữ Quốc ngữ trong các trường học nước ta thời bấy giờ.
Ảnh hưởng đối với triết học.
Bản thân triết học của Phật Học ẩn chứa những tri thức rất sâu xa, có những kiến giải sâu sắc độc đáo trong quan sát đời sống con người, đưa ra sự phản tỉnh có lý trí về loài người và phân tích các khái niệm.
Triết học cổ đại Trung Quốc có sự kết mối duyên bền vững với Phật Giáo. Huyền Học ở thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc Triều trước tiên làm môi giới truyền bá Bát Nhã Học của Phật Giáo, sau đó giao tiếp hòa hợp với Bát Nhã Học, cuối cùng bị Bát Nhã Học thay thế. Trong hai đời Tùy-Đường, tuy Nho, Thích, Đạo đều cùng phát triển nhưng nói cho đến cùng, Phật Giáo là trào lưu tư tưởng lớn mạnh nhất. Thời kỳ cuối Đường, đầu Tống, chỉ có Thiền Tông thịnh hành nhất, chi phối giới tư tưởng. Lý Học Tống Minh trên phương thức cấu tạo Bản Thể Luận “Lý nhất phân thù”, phương thức tu hành “Minh tâm kiến tính”rõ ràng đều hấp thu thành quả tư duy của Phật Giáo.
Ngay trong triết học Trung Quốc cận đại, Phật học cũng chiếm địa vị khá quan trọng. Triết học cận đại Trung Quốc bắt đầu từ phái Cải lương (phái Duy tân) của giai cấp tư sản. Lương Khải Siêu từng nói “Các nhà Tân Học cuối đời Thanh hầu như chẳng ai không có quan hệ với Phật Học” (xem: “Thanh đại học thuật khái luận”). Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu và Đàm Tự Đồng là những người như vậy. Có thể nói ai không hiểu triết học Phật Giáo thì rất khó hiểu được hình thái cụ thể của triết học Trung Quốc sau Ngụy Tấn. Dĩ nhiên Phật Giáo là hệ tôn giáo duy tâm nhưng Phật Giáo dùng các thủ pháp phân tích cảm giác, khái niệm, thuộc tính vật chất để luận chứng quan điểm duy tâm của mình, chứa đựng không ít nội dung tinh vi, tư biện, rất nhiều phương pháp phân tích logic và quan điểm biện chứng. Tất cả đã làm cho triết học cổ đại Trung Quốc thêm sâu sắc và phong phú. Ngoài ra thuyết vô thần duy vật của Trung Quốc cổ đại bao giờ cũng phát triển trong cuộc đấu tranh với thuyết hữu thần duy tâm. Về mặt này, Phật Giáo đúng là đã có tác dụng như một giáo trình phản diện.
Hiện nay, sự ảnh hưởng của văn hóa trung quốc đến Việt Nam vẫn còn rất to lớn, và nó sẽ còn tồn tại mãi mãi trong đời sống và xã hội. Sự ảnh hưởng này bao gồm cả 2 yếu tố là tích cực và tiêu cực. Dù sao nó cũng đóng góp một phần xây dựng cho nền văn hóa, lịch sử và nghệ thuật kiến trúc nước ta. Làm cho văn minh của Việt Nam có thể đóng góp những phần nhỏ vào văn minh thế giới.
Top 15 Nhà Sư Việt Nam Nổi Tiếng Được Tìm Kiếm Nhiều Nhất Hiện nay
Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ với Việt Nam: 1. Tôn giáo - Theo đường biển, các nhà sư Ấn Độ đã đến Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên và trung tâm Phật giáo lớn nhất thời bấy giờ là Luy Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). - Phật giáo lúc này mang màu sắc Tiểu thừa Nam tông. - Sau này, sang thế kỷ IV – V, lại có thêm luồng Phật giáo Đại thừa Bắc tông từ Trung Hoa tràn vào. - Do thâm nhập một cách hòa bình, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ biến rộng khắp. Đến thời Lý – Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển tới mức cực thịnh. - Ở Việt Nam di tích cho thấy rõ ràng nhất về sự tồn tại của Ấn Độ giáo là thánh địa Mỹ Sơn của quốc gia Champa cổ, một công trình kiến trúc vĩ đại còn tồn tại đến ngày nay. 2. Văn học - Từ đầu công nguyên, chúng ta chịu ảnh hưởng rất lớn từ các nước Ấn Độ, Trung Hoa, Ả Rập, Tây Âu, v.v.. - Ở Việt Nam, từ rất lâu đời các tác phẩm sử thi Ấn Độ đã trở thành món ăn tinh thần hấp dẫn truyền từ đời này sang đời khác như sử thi nổi tiếng Ramayana. 3. Nghệ thuật kiến trúc - Sự ảnh hưởng này được thể hiện rõ trong các công trình có tính chất tôn giáo như đền, tháp, điêu khắc trên phù điêu. - Nền kiến trúc Ấn Độ đã dung hòa, biến đổi cho phù hợp với nền văn hóa của từng nước khác nhau và trở thành điểm nổi bật của chính nước đó như: Borobudur(Indonesia), Angkor Wat (Campuchia) đặc biệt ở Việt Nam thì có thánh địa Mỹ Sơn. - Ngoài ra kiến trúc Ấn Độ cổ xưa còn được phát hiện qua các công trình đổ nát được xây dựng bằng nhiều loại vật liệu khác nhau chủ yếu là gạch và đá (các công trình của người Champa). 4. Lễ hội - Ẩm thực - Ở Việt Nam người Chăm là dân tộc chịu ảnh hưởng nhiều nhất của nền văn hóa Ấn vì vậy những lễ hội của họ cũng bắt nguồn từ Ấn Độ được thể hiện qua các lễ hội đền tháp như: lễ hội tháp bà Po Nagar vào tháng tư hằng năm. - Ẩm thực truyền thống của Ấn Độ với món cà ri nổi tiếng đã phổ biến ở trên thế giới và trong đó có Việt Nam. Khác với cà ri kiểu Ấn người Việt thường nấu nhiều nước hơn và được dùng với nhiều hình thức đa dạng. - Lễ hội té nước vào năm mới: Lễ hội này mang tên một vị thần tối cao Thagyarmin. Lễ hội bắt đầu vào ngày 13 đến 17 tháng 4, ngày 17 tháng 4 là đầu năm mới. - Lễ hội ánh sáng: vốn tượng trưng cho nền văn hóa Ấn Độ, lễ hội này có tên Diwali là một lễ hội quan trọng của Ấn Độ giáo. Bắt đầu từ ngày 14 đến 16 tháng Thadingyut. Ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc với Việt Nam Nền văn minh phương phương Đông vốn có những nét rực rỡ riêng tạo ra sự khác biệt của nó tuy nhiên lại không kém phần sức mạnh và sự ảnh hưởng, tiêu biểu của văn minh phương đông phải kể đến văn minh của Trung Hoa. Thành tựu của nền văn minh này có nhiều những ý nghĩa to lớn, có đóng góp quan trọng vào các thành tựu văn minh của loài người. Văn minh Trung Hoa có sự ảnh hưởng mạnh mẽ ra các vùng lân cận trong đó có Nhật Bản, Các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Sự ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa tới văn hóa Việt Nam. Về lịch sử Việt Nam có thể nói đó là một dân tộc có một bề dày về mặt văn hóa và lịch sử. Từ thời các triều đại các Vua Hùng cho đến thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc, Nước Đại Việt xưa bị ảnh hưởng sâu sắc bởi văn minh văn hóa Trung Hoa - một dân tộc lớn ngay cạnh chúng ta. Tuy nhiên sự ảnh hưởng đó không phải là sự tiêu cực mà nó là cơ hội để làm cho văn hóa của dân tộc ta càng sâu sắc theo một cách riêng, những thứ mà đã được chắt lọc sau đó làm cho phù hợp với văn hóa của người Việt. Có thể tóm tắt những ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa dựa trên những tiêu chí sau đây. Những ảnh hưởng về tư tưởng tôn giáo. Trung Hoa có rất nhiều những giáo lý và tư tưởng nổi tiếng, nhiều trong số đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam như Phật giáo (Bắc Tông), cá hệ tư tưởng như Nho giáo, Đạo giáo các tư tưởng về quản lý,…ảnh hưởng sâu sắc tới nước ta, cho đến ngày nay nó vẫn còn ý nghĩa quan trọng trong các hoạt động học tập nghiên cứu, quản lý nhà nước,.. Nho giáo: ra đời ở Trung Quốc, do Khổng Tử sáng lập. Du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc và được nhà Lý chính thức thừa nhận khi cho xây dựng Văn Miếu thờ Khổng Tử. Từ thời Lê trở thành tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị. Nho giáo đã trở thành một nhu cầu tư tưởng thiết yếu cho việc xây dụng một thiết chế quân chủ tập quyền theo mô hình Đông Á Trung Hoa, cũng như những nguyên lý cơ bản của phép trị nước, trong đó một biện pháp chiến lược là chế độ khoa cử. Về chế độ khoa cử được tổ chức mộ cách quy cũ ví dụ thời Trần có tất cả 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy đỗ 282 người đại khoa, có học vị Thái học sinh. Năm 1374, có tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ. 3 người đỗ đầu được gọi là Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. (Sau đặt thêm một học vị cấp cao nữa là Hoàng giáp). Tầng lớp nho sĩ ngày một phát triển, trong đó có những gương mặt nổi bật đều là những nhân tài của đất nước như Lê Văn Hưu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An… Những ảnh hưởng về hội họa, kiến trúc, điêu khắc. Trung Hoa vốn nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới như Vạn Lý trường thành, các lăng tẩm của vua chúa, cung điện,.. Hội hoạ Trung Quốc có lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội hoạ từ đời Hán đến đời Tuỳ. Điêu khắc nổi tiếng với những pho tượng Phật,.., Về nước ta chúng ta có Kiến trúc: Văn Miếu - Quốc Tử Giám, hoàng thành Thăng Long, thành nhà Hồ và một số công trình đền đài, tượng điêu khắc, tứ linh (long, ly, quy, phượng), … có sự pha trộn phong cách kiến trúc của Trung Hoa. Hội họa có sự tiếp thu và có những thành tựu riêng đó là Tranh Đông Hồ, Hàng Trống mang những nét khác. Những ảnh hưởng của chữ viết và văn học nghệ thuật. Chữ Hán đã từng một thời bị thực dân Phương bắc áp đặt đồng hóa nhưng bất thành, chữ viết trở lên quan trọng đối với dân tộc tuy nhiên chúng ta đã sáng tạo thêm khi không hoàn toàn dùng chữ Hán mà đó là cơ sở cho chữ Nôm ra đời dựa trên cơ sở chữ Hán nhưng có sự thay đổi đi, Chữ Hán là chữ viết chi phối rất lớn đến hệ thống văn học nghệ thuật và đời sống văn hoá của nhân dân. Văn học nghệ thuật Trng Hoa cũng sớm du nhập vào Việt Nam với sự ảnh hưởng của các thể thơ Đường Cổ. Văn học- nghệ thuật: Cơ sở tư tưởng của văn học nghệ thuật dựa trên Phật giáo và Nho giáo. Trong đó, tư tưởng nho giáo ảnh hưởng đến dòng văn học yêu nước dân tộc. Một thành tựu quan trọng của văn học nền văn minh Đại Việt là việc phổ biến chữ Nôm, vừa mang tính dân tộc (Nam Nôm), vừa mang tính dân gian (nôm na), cải biến và Việt hóa chữ Hán. Chữ Nôm lúc bấy giờ được gọi là "Quốc ngữ", " Quốc âm". Tầng lớp Nho sỹ: tiêu biểu là Nguyễn Trãi. Ngoài ra, các thành tựu về khoa học tự nhiên như bàn tính, lịch can chi, chữa bệnh bằng châm cứu… đều có tác động sâu rộng đến nền văn minh Đại Việt cũng như nền văn minh nước ta trong giai đoạn hiện tại. (Nói rõ lịch 12 con giáp,..các con vật thiêng) Sự ảnh hưởng về chính trị xã hội. Trung Quốc là một quốc gia lớn có lịch sự lâu đời, lịch sự cho thấy nước này đã từng đêm quân chinh phạt nhiều quốc gia xung quanh trong đó có nước Đại Việt. Chính sự các cuộc xâm chiếm ấy đã làm cho Nước ta phái gánh chịu những ảnh hưởng nhất định về văn hóa của họ đặc biệt là chính trị xã hội. Thể chế tổ chức bộ máy tập quyền đứng đầu là vua, dưới có cá tể tướng, tướng quân,…mỗi triều đại lại có những sự xắp xếp tổ chức bộ máy khác nhau cho phù hợp với khả năng cai trị của đất nước nhưng thể chế quân chủ đó co nhiều nét tiếp thu theo cách của Trung Quốc. Xã hội nước ta cũng có nhiều xáo chộn và thay đổi khi văn hóa Trung Hoa tràn vào, các chính sách đồng hóa người Việt tuy không thành công do sức mạnh của tinh thần dân tộc được nhưng cũng đã làm cho văn hóa gốc bị tiếp thu và cải biến. Bốn phát minh nổi tiếng của người Trung Quốc ảnh hưởng đến Việt Nam. Nghề làm giấy, đây là phát minh quan trọng và có ý nghĩa của người Trung Quốc. Vào khoảng thế kỷ III SCN nghề làm giấy truyền sang. Trước đó thì mọi ghi chép của người Việt đều sử dụng bằng thẻ tre, gỗ, lụa,..nhưng những thứ này có nhiều nhược điểm. Kỹ thuật làm giấy du nhập vào Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Theo đó mọi ghi chép sẽ được lữu trữ tốt hơn đóng góp cho sự phát triển của đât nước. Nghề in: Nghề in bắt nguồn từ việc khắc chữ cái trên các con dấu đã có trước từ thời Tần. Thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, Đạo giáo đã in nhiều bùa chú để trừ ma. Từ đời Đường, kỹ thuật in ván khắc của Trung Quốc đã truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Philippin, Arập rồi truyền dần sang châu Phi, châu Âu. Phát minh la bàn, Phát minh thuốc súng, v.v.. Sự ảnh hưởng của văn minh Trung Quốc tới Việt Nam là vô cùng lớn, cho đến giờ những ảnh hưởng đó vẫn còn những tồn tại trong đời sống xã hội. Sự ảnh hưởng đó có cả yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực. Dù sao nó cũng đóng góp một phần quan trọng vào lịch sử văn hiến của nước ta, làm cho văn minh Việt Nam có thể đóng góp những phần nhỉ vào văn minh thế giới.