Người lao động nước ngoài (“NLĐNN”) làm việc tại Việt Nam có kết hôn với người Việt Nam thì được áp dụng chính sách đặc biệt nào? Để đơn giản hóa thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho những NLĐNN đó, Bộ Luật lao động 2019 đã quy định một trường hợp đặc biệt về việc NLĐNN không thuộc diện phải xin cấp Giấy phép lao động (“GPLĐ”) nếu kết hôn với người Việt Nam và sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Trường hợp không phải xin giấy phép lao động thì cần tiến hành thủ tục gì?
Những trường hợp không phải xin giấy phép lao động được quy định tại Điều 154 Bộ luật lao động 2019. Phần lớn các trường hợp được miễn nằm ngoài khu vực kinh tế tư nhân. Hơn nữa một số đối tượng cũng phải thực hiện một số thủ tục pháp lý nhất định để vào Việt Nam nên không cần phải có giấy phép lao động nhằm giảm bớt thủ tục hành chính trong lĩnh vực này.
Tuy không phải làm thủ tục xin giấy phép lao động nhưng những đối tượng này lưu ý vẫn cần tiến hành thủ tục xin xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động hoặc thủ tục báo cáo với cơ quan nhà nước. Nếu không thực hiện thủ tục này, đặc biệt là trong các doanh nghiệp, mức phạt hành chính vẫn sẽ được áp dụng tương tự với trường hợp không có giấy phép lao động hợp pháp tại Việt Nam,
Hồ sơ xin xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động
Người sử dụng lao động nộp hồ sơ trực tiếp hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính hoặc nộp hồ sơ qua dịch vụ công trực tuyến (nếu có) tới Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (Cục Việc làm) hoặc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi người lao động nước ngoài dự kiến làm việc trước ít nhất 10 ngày, kể từ ngày người lao động nước ngoài bắt đầu làm việc.
Theo Điều 8 của Nghị định 152/2020/NĐ-CP, được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 70/2023/NĐ-CP, những đối tượng sau đây không phải làm thủ tục xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động nhưng phải báo cáo với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi người lao động nước ngoài dự kiến làm việc:
Người sử dụng lao động báo cáo với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi người lao động nước ngoài dự kiến làm việc thông tin: họ và tên, tuổi, quốc tịch, số hộ chiếu, tên người sử dụng lao động nước ngoài, ngày bắt đầu và ngày kết thúc làm việc trước ít nhất 3 ngày, kể từ ngày người lao động nước ngoài dự kiến bắt đầu làm việc tại Việt Nam.
Xử lý người lao động nước ngoài không có giấy phép lao động
Theo Điều 153 Bộ luật lao động 2019, người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không có giấy phép lao động sẽ bị buộc xuất cảnh hoặc trục xuất theo quy định của pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Người sử dụng lao động sử dụng người lao động nước ngoài làm việc cho mình mà không có giấy phép lao động thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Như vậy, khi người lao động nước ngoài làm việc không có giấy phép lao động thì cả người lao động và người sử dụng lao động đều có thể bị xử phạt. Cụ thể:
Theo Khoản 3 Điều 32 Nghị định 12/2022/NĐ-CP, người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không có giấy phép lao động hoặc sử dụng giấy phép lao động đã hết hiệu lực thì bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.
Ngoài ra, người lao động không có giấy phép lao động còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là trục xuất người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh. Đây là hình phạt nghiêm khắc hơn rất nhiều so với mức phạt tiền hành chính ở trên.
Theo Khoản 4 Điều 32 Nghị định 12/2022/NĐ-CP, người sử dụng lao động có hành vi sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam mà không có giấy phép lao động hoặc sử dụng người lao động nước ngoài có giấy phép lao động đã hết hạn thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo một trong các mức sau đây:
Trường hợp nào phải xin giấy phép lao động?
Giấy phép lao động là một trong những điều kiện để người lao động nước ngoài làm việc hợp pháp tại Việt Nam theo Điều 151 Bộ Luật lao động năm 2019. Thời hạn của giấy phép lao động tối đa là 02 năm, trường hợp gia hạn thì chỉ được gia hạn một lần với thời hạn tối đa là 02 năm.
Để được cấp giấy phép lao động, người lao động cần tiến hành thủ tục xin Giấy phép lao động theo trình tự thủ tục được quy định tại Nghị định 152/2020/NĐ-CP, được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 70/2023/NĐ-CP.
Trừ các trường hợp không thuộc diện cấp giấy phép lao động theo Điều 154 Bộ luật lao động 2019 thì tất cả các trường hợp người lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam đều phải xin giấy phép lao động.
Trường hợp xin xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động
Theo Điều 8 của Nghị định 152/2020/NĐ-CP, được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 70/2023/NĐ-CP, các trường hợp sau cần tiến hành xin xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động:
Dịch vụ xin giấy phép lao động của Luật Việt An
Trên đây là nội dung tư vấn pháp lý của Luật Việt An liên quan đến trường hợp người nước ngoài làm việc không có giấy phép lao động tại Việt Nam mà chúng tôi nhận được từ khách hàng. Quý khách có thắc mắc hoặc có nhu cầu hỗ trợ dịch vụ pháp lý về Giấy phép lao động, xin vui lòng liên hệ Luật Việt An để được hỗ trợ tốt nhất.
1. Giai đoạn từ năm 1997 – 2008:
Tại Việt Nam, đầu tư theo hình thức PPP được bắt đầu thực hiện từ năm 1997 với chỉ duy nhất một hình thức hợp đồng BOT (Nghị định số 77/CP ngày 18/6/1997). Đến năm 1998, các loại hợp đồng PPP đã được mở rộng gồm 03 loại BOT, BTO, BT (Nghị định số 62/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998). Năm 2005, khái niệm về 03 loại hợp đồng BOT, BTO, BT lần đầu tiên được quy định tại Luật Đầu tư và tiếp tục được hướng dẫn thực hiện tại Nghị định số 78/2007/NĐ-CP ngày 11/5/2007. Trong giai đoạn này, các văn bản quy phạm pháp luật đều chưa có hương dẫn về lựa chọn nhà đầu tư dự án PPP.
2. Giai đoạn từ năm 2009 – 2013:
Ngày 27/11/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 108/2009/NĐ-CP quy định các hình thức đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO và BT áp dụng thống nhất cho nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.
Ngày 09/11/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg về Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức PPP, trong đó lần đầu tiên định nghĩa thuật ngữ PPP. Tuy nhiên, Quyết định nêu trên chưa nêu cụ thể các loại hợp đồng dự án PPP, cũng như không phân tách rõ ràng với Nghị định số 108/2009/NĐ-CP, đặc biệt là quy định cụ thể về quy trình, thủ tục thực hiện dự án PPP và các cơ chế, chính sách kèm theo… Do sự tồn tại song song của hai văn bản này trong cùng một giai đoạn nên nhiều ý kiến vẫn cho rằng mô hình PPP (theo Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg) và 03 loại hợp đồng BOT, BTO, BT (theo Nghị định số 108/2009/NĐ-CP) là những hình thức đầu tư khác nhau.
Về lựa chọn nhà đầu tư, trong giai đoạn này, Luật Đấu thầu năm 2005 không điều chỉnh hoạt động lựa chọn nhà đầu tư dự án PPP. Việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện theo Nghị định số 108/2009/NĐ-CP, Nghị định số 24/2011/NĐ-CP sửa đổi Nghị định số 108/2009/NĐ-CP và Thông’tư số 03/2011/TT-BKHĐT ngày 27/01/2011 của Bộ KH&ĐT.
Ảnh: Nút giao thông trung tâm quận Long Biên là một trong các dự án BT đã hoàn thành, mang lại hiệu quả đầu tư cao cho Hà Nội (sưu tầm)
3. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay:
Trong giai đoạn này, quy định về đầu tư theo hình thức PPP đã được thể chế hóa ở các văn bản Luật khác nhau (như Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư) và quy định về PPP được thống nhất trong Nghị định của Chính phủ, cụ thể:
+ Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13: Khoản 4 Điều 5 quy định đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án PPP là đầu tư công. Điều 33 của Luật cũng quy định nguyên tắc, trình tự, thủ tục, nội dung quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án PPP.
+ Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2014); Phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu (Khoản 3 Điều 1) đã bổ sung quy định về lựa chọn nhà đầu tư PPP. Khoản 2 Điều 3 của Luật quy định về việc áp dụng Luật Đấu thầu, theo đó, đối với trường hợp đã lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án PPP thì nhà đầu tư không phải lựa chọn nhà thầu thực hiện dự án theo Luật Đấu thầu nhưng phải ban hành quy định về lựa chọn nhà thầu để áp dụng thống nhất trong doanh nghiệp, đảm bảo mục tiêu công bằng, minh bạch, hiệu quả kinh tế. Quy định về giải thích từ ngữ (Điều 4) đã bổ sung các thuật ngữ liên quan đến PPP bao gồm định nghĩa cơ quan nhà nước có thẩm quyền, doanh nghiệp dự án PPP, hợp đồng dự án. Luật cũng quy định riêng một chương (Chương 6) về trình tự, thủ tục, phương pháp, hình thức lựa chọn nhà đầu tư. Các loại hợp đồng PPP, điều kiện ký kết hợp đồng được quy định từ Điều 68 đến Điều 72.
+ Luật Đầu tư số 67/2014/QH13: Khoản 8 Điều 3 và Điều 27 nêu định nghĩa về hợp đồng PPP, theo đó, hợp đồng PPP là hợp đồng được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện dự án đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công. Lĩnh vực, điều kiện, thủ tục thực hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP theo quy định chi tiết của Chính phủ.
Ngày 14/02/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định 15/CP) trên cơ sở hợp nhất Nghị định số 108/2009/NĐ-CP và Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg. Nghị định 15/CP được xây dựng trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm quốc tế về quy trình thực hiện dự án, loại hợp đồng… đồng thời có những bổ sung phù họp với tình trạng, hoàn cảnh của Việt Nam, cụ thể:
+ Mở rộng lĩnh vực (Điều 4): Trước đây, đầu tư PPP chủ yếu nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng “cứng” thuộc các lĩnh vực như giao thông vận tải, năng lượng, cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải. Nghị định 15/CP đã bổ sung phạm vi dự án có thể làm PPP, bao gồm cả hoạt động cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực xã hội như y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể thao và các lĩnh vực khác như hạ tầng thương mại, khu công nghiệp, hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.
+ Bổ sung loại hợp đồng mới (Điều 3): Bên cạnh các loại hợp đồng truyền thống như BOT, BTO và BT, Nghị định 15/CP bổ sung một số loại hợp đồng mới như BOO, O&M, BTL và BLT. Các loại hợp đồng này có thể chia thành hai nhóm về hình thức thanh toán: (i) nhóm hợp đồng mà nhà đầu tư tố chức thu phí trực tiếp của người sử dụng hoặc tạo doanh thu thông qua hợp đồng bao tiêu sản phẩm (hợp đồng BOT, BTO, O&M, BOO); (ii) nhóm hợp đồng mà nguồn thu của nhà đầu tư được hình thành từ những khoản thanh toán định kỳ của cơ quan nhà nước (hợp đồng BTL, BLT).
+ Quy trình chuẩn bị dự án (Điều 9): Nghị định 15/CP yêu cầu dự án phải thực hiện nghiên cứu và chuẩn bị đầu tư bài bản trước khi lựa chọn nhà đầu tư. Quá trình nghiên cứu trải qua hai giai đoạn rõ nét: (i) lập đề xuất dự án đế đánh giá tính phù họp với hình thức đầu tư PPP; (ii) lập báo cáo nghiên cứu khả thi (BCNCKT) để đưa ra những giải pháp cụ thể cho quá trinh triển khai.
Ảnh: Bệnh viện Gia An 115 là dự án PPP đầu tiên trong lĩnh vực y tế tại TP.HCM, hợp tác giữa Tập đoàn Hoa Lâm và Bệnh viện Nhân dân 115 (Tuấn Thụy)
Nghị định 15/CP cũng phân biệt rõ hai phương thức nhà đầu tư tư nhân tiếp cận dự án PPP do Nhà nước lập và do nhà đầu tư đề xuất. Trường hợp nhà đầu tư đề xuất dự án, việc lựa chọn vẫn thông qua quy trình đấu thầu cạnh tranh (nhà đầu tư đề xuất dự án được hưởng mức ưu đãi 5% trong quá trình lựa chọn theo Điều 3 Nghị định số 30/2015/NĐ-CP về lựa chọn nhà đầu tư).
+ Quy định về vốn đầu tư công tham gia thực hiện dự án (Điều 11): Trong nhiều trường hợp, dự án với mục đích công không có đủ nguồn thu để đảm bảo khả năng hoàn vốn. Khi đó dự án cần tới sự tham gia của Nhà nước. Nghị định 15/CP quy định về mục đích sử dụng và thủ tục thu xếp nguồn vốn đầu tư công tham gia thực hiện dự án PPP nhằm đảm bảo tính khả thi về tài chính cho dự án. Theo đó, nguồn vốn này được sử dụng với ba mục đích: (i) góp vốn đế xây dựng công trình dự án; (ii) thanh toán cho nhà đầu tư; (iii) hỗ trợ xây dựng công trình phụ trợ, giải phóng mặt bằng, tổ chức bồi thường và tái định cư.
+ Quy định cụ thể về tổ chức chuẩn bị, thực hiện dự án: Nghị định 15/CP (Điều 8) quy định về cơ quan được đứng ra ký kết, thực hiện hợp đồng cũng như cơ chế ủy quyền ký hợp đồng. Ngoài ra, Điều 7 Nghị định đã quy định tổ chức bộ máy để thực hiện dự án PPP tại cấp Trung ương (như thành lập Ban Chỉ đạo về PPP) và cấp Bộ, ngành, địa phương (thành lập hoặc giao đơn vị làm đầu mối về PPP).
Ngày 17/3/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định 30/2015/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định 30/CP) quy định chi tiết thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án PPP, trong đó có các điểm nổi bật:
+ Hình thức lựa chọn nhà đầu tư (Điều 9): Hai hình thức lựa chọn nhà đầu tư chủ yếu là đấu thầu rộng rãi và chỉ định thầu.
+ Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu (Điều 27): Gồm 4 phương pháp là phương pháp giá dịch vụ, phương pháp vốn góp của Nhà nước, phương pháp lợi ích xã hội, lợi ích Nhà nước và phương pháp kết hợp.
+ Tăng cường công khai, minh bạch (Điều 4, 5): Nghị định quy định thời hạn, quy trình và phương tiện đăng tải thông tin liên quan đến lựa chọn nhà đầu tư như danh mục dự án, kế hoạch đấu thầu, thông báo mời thầu, kết quả lựa chọn nhà đầu tư. Theo đó, Báo Đấu thầu và Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia là hai phương tiện đãng tải thông tin đấu thầu một cách tập trung, minh bạch.
+ Bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu (Điều 2): Nghị định 30/CP hướng dẫn chi tiết các yêu cầu về bảo đảm cạnh tranh trong các cặp quan hệ: nhà đầu tư tham dự thầu và nhà thầu tư vấn tham gia các khâu của quá trình đấu thầu; nhà đầu tư tham dự thầu và cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bên mời thầu; nhà đầu tư tham dự thầu, nhà thầu tư vấn với một bên thứ ba.
Tiếp theo đó, các Bộ, ngành đã ban hành 12 Thông tư hướng dẫn Nghị định 15/CP và Nghị định 30/CP, cụ thể:
+ Bộ KH&ĐT ban hành 03 Thông tư gồm: Thông tư số 06/2016/TT-BKHĐT quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 15/CP, Thông tư số 02/2016/TT-BKHĐT về lựa chọn sơ bộ dự án, lập, thẩm định, phê duyệt đề xuất dự án và báo cáo nghiên cứu khả thi, Thông tư số 15/2016/TT-BKHĐT về lập hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu dự án PPP;
+ Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành các Thông tư hướng dẫn nội dung về PPP thuộc ngành, lĩnh vực minh quản lý, bao gồm: Thông tư số 86/2015/TT-BGTVT, Thông tư số 23/2015/TT-BCT; Thông tư số 38/2015/TT-BCT; Thông tư số 21 /2016/TT-BTTTT; Thông tư số 14/2017/TT-BNNPTNT.
+ Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn về quản lý tài chính dự án PPP tại Thông tư số 55/2016/TT-BTC, Thông tư số 75/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 55/2016/TT-BTC, Thông tư số 30/2018/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư sổ 75/2017/TT-BTC.
+ Riêng về cơ chế thanh toán dự án BT, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định sổ 23/2015/QĐ-TTg ngày 26/6/2015 và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 183/2015/TT-BTC hướng dẫn Quyết định nêu trên.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về PPP, ngày 04/5/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/2018/NĐ-CP về PPP (sau đây gọi tắt là Nghị định 63/CP) với một số nội dung quy định mới để khắc phục tối đa các tồn tại, hạn chế, các rào cản ở cấp Nghị định, trong đó có một số điểm nổi bật như:
+ Quy định rõ về quy trình, thủ tục thực hiện dự án PPP nói chung và có quy trình riêng đối với dự án sử dụng công nghệ cao; quy định quy trình chặt chẽ đối với dự án BT. Bên cạnh đó, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP đã được quy định rõ tại Nghị định theo từng loại dự án và nhu cầu sử dụng nguồn lực của Nhà nước (Trung ương hay địa phương) trên tinh thần đẩy mạnh phân cấp, tăng tính trách nhiệm của người đứng đầu nhằm khắc phục quy định vay mượn trước đây (có khi tham chiếu đến quy định đầu tư công thuần túy hoặc đầu tư tư nhân thuần túy mà chưa có quy định rõ về cơ chế hợp tác công tư).
+ Bổ sung nguồn vốn Nhà nước tham gia dự án PPP từ các nguồn chi thường xuyên, nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ công (ngoài vốn đầu tư công) để phù hợp với tính chất của các loại hợp đồng PPP và tăng cơ hội triển khai dự án PPP tại các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về tài chính (ví dụ điển hình là các bệnh viện công lập đang quá tải…).
+ Quy định chặt chẽ hơn đối với dự án BT: (i) dự án BT chỉ được tổ chức lựa chọn nhà đầu tư khi đã có thiết kế và dự toán được phê duyệt; (ii) quỹ đất dự kiến thanh toán cho nhà đầu tư phải được định rõ ngay trong giai đoạn lập báo cáo nghiên cứu khả thi – với yêu cầu phải được phê duyệt quy hoạch xây dựng tỷ lệ 1/2.000 hoặc 1/500 (nếu có).
+ Bãi bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư dự án PPP: Do sau khi lựa chọn và đàm phán thành công hợp đồng thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư/doanh nghiệp dự án PPP sẽ ký kết hợp đồng (BOT, BT, BTL, BLT…) làm căn cứ triển khai thực hiện nên việc duy trì thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư là không cần thiết; việc lược bỏ thủ tục này góp phần giảm thời gian, thủ tục và chi phí cho nhà đầu tư.
+ Minh bạch nội dung cơ bản hợp đồng PPP đã được ký kết: Nghị định quy định thời gian và các nội dung thông tin cơ bản hợp đồng PPP phải được công khai để tăng tính minh bạch, tính giải trình và đặc biệt làm tăng khả năng giám sát của người dân, xã hội.
+ Ngoài ra, Nghị định 63/CP đã rà soát, sửa đổi, bổ sung khá nhiều quy định về: lĩnh vực đầu tư, hợp đồng dự án, tăng cường việc phân cấp, yêu cầu về vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư, yêu cầu về thời điếm chuyển nhượng dự án; yêu cầu lấy ý kiến cộng đồng về tác động của dự án…
Để tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về PPP, ngày 21/10/2017, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 437/NQ-ƯBTVQH14 về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng BOT. Tại Nghị quyết này, ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp, trong đó bao gồm “Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT đặt trong tổng thể hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức PPP với định hướng nghiên cứu xây dựng, trình Quốc hội ban hành Luật tạo cơ sở pháp lý cao, thống nhất, đồng bộ cho hình thức đầu tư này”.
Thực hiện nhiệm vụ nêu trên, Chính phủ đã chỉ đạo, giao Bộ KH&ĐT chủ trì nghiên cứu, xây dựng Luật về PPP. Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật PPP đã được Bộ KH&ĐT hoàn thiện, được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 10/5/2018.
Ngày 13/12/2018, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết số 613/2018/ƯBTVQH14 về việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019. Theo đó, Luật về PPP dự kiến được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019).
Quy định pháp luật gián tiếp điều chỉnh hoạt động đầu tư theo hình thức PPP
Ngoài hành lang pháp lý trực tiếp quy định về dự án PPP thì Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các quy định liên quan như pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng… quy định một số nội dung liên quan đến PPP, cụ thể:
– Pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công:
Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (Điều 13) quy định cho phép việc sử dụng tài sản công để tham gia dự án đầu tư theo hình thức PPP của các cơ quan nhà nước. Nội dung chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết định sử dụng tài sản công để tham gia dự án PPP và chế độ báo cáo được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 151/2017/NĐ-CP (Chương II Mục 4). Đầu tư theo hình thức PPP là một trong các hình thức đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước (Luật Quản lý, sử dụng tài sản công Đỉều 30). Bên cạnh đó, Điều 44 và Điều 117 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công cũng quy định các nguyên tắc về việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình theo hình thức hợp đồng BT.
Bên cạnh đó, việc sử dụng tài sản công để tham gia vào dự án PPP hoặc thanh toán cho dự án BT tại các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp cũng đã được quy định tại Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (Điều 68); đặc biệt, việc sử dụng tài sản công tại cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam trong dự án PPP, xây dựng trụ sở làm việc theo hình thức PPP được quy định chi tiết tại Nghị định số 165/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 (Điều 10 và Điều 11).
Luật Đất đai số 45/2013/QH13 (Khoản 3 Điều 155) đã có quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử đụng đất và trách nhiệm Nhà nước giao cho nhà đầu tư quản lý diện tích đất để thực hiện dự án BT, BOT, BOT và các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật về đầu tư.
Nghị định số 45/2014/NĐ-CP về thu tiền sử dụng đất (Điều 4 Khoản 2), Nghị định số 46/2014/NĐ-CP về tiền thuê đất, thuê mặt nước (Điều 23) quy định cơ chế nhà đầu tư ứng trước tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng và khoản tiền này được trừ vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất mà nhà đầu tư phải nộp.
Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 chỉ đề cập đến dự án PPP ở hai nội dung bao gồm: (1) Định nghĩa chủ đầu tư trong hợp đồng PPP là doanh nghiệp dự án do nhà đầu tư thành lập; (2) Thẩm quyền thẩm định thiết kế cơ sở dự án PPP có vốn Nhà nước tham gia thực hiện dự án là cơ quan chuyên môn về xây dựng theo phân cấp.
Nghị định số 59/2015/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng (Điều 3) quy định dự án PPP có cấu phần xây dựng được quản lý như đối với dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài ngân sách, theo đó một số nội dung như thiết kế, dự toán xây dựng của nhà đầu tư (sau khi đã ký kết hợp đồng) phải được cơ quan chuyên môn về xây dựng thấm định.
– Pháp luật về ngân sách nhà nước:
Việc sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong dự án PPP tuân thủ theo các quy định chung của pháp luật về ngân sách nhà nước; chưa có quy định dành riêng cho dự án PPP.
– Pháp luật liên quan đến ưu đãi, hỗ trợ đầu tư:
Về ưu đãi đầu tư, Luật Đầu tư năm 2005 và được sửa đổi năm 2014 đều có quy định về nội dung ưu đãi đối với nhà đầu tư. Căn cứ vào đặc điểm, yêu cầu từng dự án cụ thể, từng ngành nghề, địa bàn đầu tư, nhà đầu tư sẽ được áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện để thực hiện dự án đầu tư; miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất. Những ưu đãi này góp phần tích cực tác động các nhà đầu tư khi họ đưa ra quyết định đầu tư dự án.
Ngoài ra, đối với từng ngành, lĩnh vực, một hệ thống các quy định hỗ trợ đầu tư đã được ban hành:
+ Đối với lĩnh vực khuyến khích thực hiện theo hình thức xã hội hóa (y tế, văn hóa, giáo dục, môi trường): Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008, Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP quy định về chính sách xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực này; theo đó, nhà đầu tư khi tham gia đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ được ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (từ 25% xuống còn 10%).
+ Đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn: Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 61/2010/NĐ-CP, Nghị định số 210/2013/NĐ-CP (thay thế Nghị định sồ 61/2010/NĐ-CP), Nghị định số 57/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Theo đó, khi doanh nghiệp thực hiện đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi về đất đai, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển thị trường, hỗ trợ dịch vụ tư vấn, hỗ trợ áp dụng khoa học công nghệ, áp dụng cước phí vận tải.
+ Đối với lĩnh vực cấp nước sạch nông thôn: Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 131/2009/QĐ-TTg ngày 02/11/2009 về chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư và quản lý, khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn, liên bộ Bộ NN&PTNT, Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT đã có Thông tư số 37/2014/TTLT-BNNPTNT-BTC-BKHĐT quy định về các chính sách ưu đãi này. Cụ thể bao gồm chính sách về đất đai, về thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động vốn, hỗ trợ giá tiêu thụ nước sạch. Ngoài thực hiện chính sách thu hút nhà đầu tư, việc đưa ra các chính sách ưu đãi, hỗ trợ này còn đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững trong nông nghiệp, nông thôn.
+ Đối với lĩnh vực thoát nước, xử lý nước thải: Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2018/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải, trong đó Điều 38 quy định về cơ chế ngân sách nhà nước cấp bù chi phí thoát nước, xử lý nước thải cho nhà đầu tư trong trường hợp giá dịch vụ xử lý nước thải thu từ người sử dụng (do UBND cấp tỉnh phê duyệt) chưa tính đúng, tính đủ chi phí của nhà đầu tư.
+ Đối với lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng KCN, KKT: Từ năm 2008 đến năm 2018, Chính phủ đã lần lượt ban hành các Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, Nghị định số 164/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định số 29/2008/NĐ-CP), Nghị định số 114/2015/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định số 29/2008/NĐ-CP), Nghị định số 82/2018/NĐ-CP. Theo đó, các Nghị định này đều quy định đầu tư theo hình thức PPP (trước năm 2018 là các loại hợp đồng BOT, BT, BTO) là một trong các hình thức thu hút vốn phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khu kinh tế.
– Pháp luật về sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển:
Chính phủ đã ban hành Nghị định 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu và Nghị định số 106/2008/NĐ-CP ngày 19/9/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP. Theo quy định tại các Nghị định này, việc sử dụng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chỉ được áp dụng đối với các dự án thuộc một số ngành quan trọng và chương trình kinh tế lớn có hiệu quả kinh tế – xã hội, có khả năng hoàn trả vốn vay do Chính phủ quy định bao gồm các dự án xây dựng công trình cấp nước phục vụ sinh hoạt; các dự án xử lý nước thải, rác thải tại khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, bệnh viện và các cụm công nghiệp làng nghề; dự án xây dựng quỹ nhà tập trung cho công nhân lao động làm việc trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, ký túc xá sinh viên…
– Pháp luật về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):
Các văn bản điều chỉnh hoạt động này lần lượt là Nghị định 17/2001/NĐ-CP ngày 04/5/2001, Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006, Nghị định số 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013, Nghị định số 16/2016/NĐ-CP ngày 16/3/2016, Nghị định số 132/2018/NĐ-CP ngày 01/10/2018 và các Thông tư hướng dẫn.
Ngoài ra, việc thực hiện dự án PPP cũng tuân thủ các pháp luật chuyên ngành khác có liên quan trong từng lĩnh vực như pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường, về ngoại hối (đối với các dự án có nhà đầu tư nước ngoài).
(Nguồn: Báo cáo số 25/BC-CP ngày 30/01/2019 của Chính phủ về tổng kết tình hình thực hiện dự án PPP)